CHƯƠNG
9
Sau hơn 1 năm về
quê vợ trong hoàn cảnh cũng không khá gì, nhưng thấy thư thái tâm hồn được đôi
chút…Nghĩ đến mấy đứa con nên có cuộc sống sinh động hơn vì ở đây chúng chỉ
quanh quẩn với cái mương đất, cây vườn, con gà, con vịt… và một ngày nào đó chúng
phải đi học…Tôi bàn tính với vợ tôi là phải quay về chợ sống. Tôi lại trồi về
Trà Cú lại tiếp tục làm nghề xe đò.
Vì cuộc sống, tôi phải bương chảy
tháng ngày với cái nghề bất đắc vỉ. Ba tôi nhìn hai thằng con trai lớn của tôi
lúc đó đứa lên 5, lên 6 và nói với tôi: “Con
phải lo…một ngày nào đó hai thằng nhỏ lớn trong cái xứ nầy thì không khá nỗi đâu
con ơi! Ba nhắc khéo tôi phải lo bằng mọi cách để đi nước ngoài…Vượt Biển!
Chỉ có con đường đó chứ còn con đường nào khác.Tôi chần chừ mãi vì sợ đi không
thành, bị bắt lại thì còn khổ hơn.Tôi nấn ná. Ba tôi lén lo cho vợ con tôi đi
vài chuyến mà không thành. Có chuyến chung tiền rồi bị họ quịt, có chuyến vừa
đổ bến thì bị lộ. May mà vợ con tôi đều thoát hiễm được.Tôi ít ở nhà vì các
chuyến xe xuôi ngược ít ghé lại nhà nên tôi nào biết. Đến một ngày xe đậu ở Trà
Vinh để sửa chửa.Vợ tôi đưa ba đứa con về bên nhà ngoại chúng ở Chợ Lách. Đêm
ngủ lại ở Trà Vinh lúc chạng vạng tối có người tới nhà báo cho ba tôi chuyến đi
mà ba đã đặt cọc trước cho vợ tôi và ba đứa con tôi đi. Tôi đang nằm trên lầu, ba
bước lại gần tôi và nói:
BẤM ĐỌC TIẾP
-Ba
lo cho vợ con và ba đứa nhỏ đi. Bây giờ người ta lại báo chuyến đi lúc khuya
nầy.Vợ con và mấy đứa nhỏ về Chợ Lách…Thôi con thế vào đi. Ba nói nhỏ giọng: Chổ nầy gia đình quen của ba tổ chức, toàn
là người nhà…
Tôi bối rối nhìn ba tôi.
-
Con
chưa chuẩn bị tinh thần để đi ba à...
Ba nói:
-
chuyến
nầy để hụt uổn lắm …Con phải tính.
Tôi nhìn ba tôi và nói:
- Ba để con suy nghĩ…
- Con
nên quyết định đi nghe con…
Nó
xong ba tôi xuống lầu.Tôi nằm suy nghĩ miên mang và thiếp đi một lúc nào không
hay.Lúc khoảng hơn 4 giờ sáng có người lại rước đi. Ba lên đánh thức tôi dậy và
nói con sửa soạn vài bộ đồ bỏ vào túi đệm. Ba nói chuyến nầy có Châu là con của
chú 6 cùng đi nữa. Tôi quyết định đi…
Buổi sáng trời còn tối.Tiếng gà gáy lần
hai thưa dần. Xe bên ngoài bắt đầu xuôi ngược.Tôi theo người hướng dẩn.Chị ta
dặn tôi đi cách chị chừng mươi bước và hướng đi là ngang bến xe, đi vòng qua chợ và ra vùng
cầu Long Bình, đi dọc theo bờ sông hướng cầu Tiệm Tương.Trời lúc nầy mờ mờ sáng.Tôi
vẫn giử khoảng cách với chị.Ra đây tôi thấy nhẹ hẵn người vì là dân bến xe tôi
có nhiều người quen, cả các công an giao thông và thuế vụ cũng biết tôi.Tôi e
sợ khi gặp họ. Đang đi ngang chiếc quán nhỏ bên đường.Tôi nghe tiếng gọi: “Anh Hai đi đâu sớm quá vậy? Vô uống vài ly
rồi đi đâu thì đi. Hai thằng em thuộc dân bến xe mới sáng bảnh mắt lại ngồi
nhậu. Mặc cho tôi nài nỉ là bận đi công chuyện. Chúng kéo tay tôi vào.Tôi phải
trợn mắt uống hết một cốc rượu đế và gắp một đủa cá nướng trui nóng bỏ vào
miệng nhai cho đở cay. Tôi nói: Thôi anh
Hai phải đi. Nói xong tôi bước ra và nhìn dáo dát. Nguời dẩn đường đứng chờ
tôi ở một đổi khá xa. Chị đưa tay ngoắc tôi.Tôi lại tiếp tục theo chị một đỗi
nữa…Lại ai đó kêu tôi: Anh hai ơi! Tôi
giã vờ không nghe…nhưng tôi khựng lại nghĩ suy. Mới xuất hành mà bị cản mủi như
thế nầy chắc chuyến đi không xong. Nghĩ vậy tôi quay đầu đi ngược lại và vô
ngồi với mấy thằng em bến xe khác đang uống cà phê. Uống xong hớp cà phê, tôi
cáo từ và quyết tâm bỏ cuộc.Thấy tôi quay ngược về, chị dẩn đường đi nhanh về
phía tôi. Lúc đi ngang tôi chị nói: “Chời
ơi! Gần tới chổ xuống ghe rồi sao cậu quay lại.Tôi nói: Tôi không đi nữa…nhiều người quen ở đây quá.Chị
nói: Thôi đi chổ khác tìm xe kéo đi ra
Vàm Trà Vinh. Tôi gật đầu. Chúng tôi
đi bằng xe kéo ra đường Vàm Trà Vinh. Xe dừng lại ở một quán bán nước dừa có nhiều
võng treo. Đây là một vườn với nhiều hàng dừa
che khuất. Bên ngoài có cổng. Bên trong có vài túp liều lá với những chiếc bàn
thấp và ghế ngã lưng. Quanh những hàng dừa có nhiều chiếc võng treo. Chị bảo
tôi ngồi lên một chiếc võng mắc ở hai thân dừa.Tôi quan sát chung quanh, lúc
nầy cũng có nhiều người ngồi hoặc nằm trên võng. Cái vẻ của họ…tôi đoán…chắc
như tôi.Tôi ngồi trên võng đong đưa với ly nước dừa mà chủ quán đem đến và nói:
ông nằm nghĩ cho khoẻ. Tôi đoán chắc
đây là nơi tụ họp những người cùng đi như tôi.Tôi đong đưa chiếc võng nhưng
không quên nhìn dáo dát để tìm hiểu sự việc chung quanh…Tôi chợt thấy Châu,
đứa em bà con chú bác của tôi nằm xa bên trong chừng
vài cái võng.Thấy tôi, em đưa tay lên và cười .
Thời gian từ buổi sáng…kéo dài đến xế chiều
nằm trên võng, tôi hồi hộp lo âu. Chuyến
đi nầy ra sao đây?Tôi có cái cảm giác bất chợt như rủi ro nào đó sắp xảy ra…Tôi
lắc đầu, miệng đọc kinh Nam Mô Quan Thế Âm Tát cứu nạn cứu khổ… như những năm
chạy bom đạn của giặc Tây mà tôi nghe má tôi thường tụng niệm. Trong những cơn
nguy hiễm thường người ta bám víu đến Trời, Phật như một cách trấn an tinh thần.
Trời hơi xế chiều. Nắng xuyên qua từng kẻ lá
dừa đong đưa.Tôi cảm giác một buổi chờ đợi lê thê dài. Có lúc tôi muốn ngồi xổm
lên rời chiếc võng để đi về. Nhưng tôi nghĩ lại “Đã phóng lao rồi, phải theo lao…” thử liều một chuyến xem sao…? Lúc
nầy có một người đi lòng vòng báo cho mọi người đi ra và bước lên theo từng chuyến
xe Honda kéo. Chúng tôi được đưa ra Vàm Trà Vinh trong lúc trời chuyển sang mờ
tối.Tôi gặp Châu. khi bước xuống chiếc xuồng nhỏ đậu sẳn dưới một tàn cây.Trên
xuồng có tôi, em Châu. và một người nữa. Chúng tôi ngồi trong chiếc mui xuồng bịt
kín hai đầu bằng miếng nhựa nilong. Họ dặn đừng ai ra bên ngoài.
Qua
kẻ lá của những lùm cây xanh trở màu xám tối. Bầu trời mờ mờ với ánh trăng non
không đủ sức để tỏa sáng bầu trời.Vài con chim đêm vụt bay làm xào xạc trong đám
dừa nước. Tôi ngồi nhìn khoảng trời đêm và nghĩ đến một cuộc mạo hiễm sắp tới.
Tôi hồi hợp âu lo một điều gì đó mà không dám nghĩ tới tận cùng. Em Châu thì cứ
mỗi lúc lại nói : Em cần đi tiểu, cũng
chắc vì quá lo âu nên em đi tiểu nhiều lần sau đó. Em bò ra ngoài mũi xuồng
và tè ở đó.Trời tối đậm thêm. Ngoài sông lớn lấp lánh ánh trăng trên những gợn
nước đen. Người chèo thuyền nói:Mọi người
ở yên trong mui.Mình bắt đầu ra cá lớn. Tôi lại hồi hộp âu lo khi thuyền
bắt đầu lướt ra ngoài sông lớn.Tôi ngoái nhìn vô bờ thấy có vài ánh đèn phin
loe loé ở các bụi cây. Xuồng chèo ra xa ngoài sông rộng. Ánh trăng tung toé qua hai thanh
tay chèo. Dòng sông bao la mù mù trãi rộng.Tôi nhìn thấy chiếc lù lù một chiếc
ghe to ở giửa dòng sông. Ghe chèo nhanh hơn về hướng đó. Ghé tấp lại. Người
chèo ghe hối thúc chúng tôi phải cố leo nhanh lên ghe lớn.Tôi lên được trước và
kéo em Châu lên. Có vài người nhìn vào chúng tôi gần như giáp mặt. Họ nói mấy
người nầy không phải là khách của mình.Tôi đâm lo…Người chèo xuồng đã tách xa. Có
ai đó chưởi thể: Đ.M mấy cái thằng taxi đưa thêm người. Có người nói: Lỡ
rồi…thôi cho họ đi luôn. Tôi mừng thầm và nghĩ: Thì ra bọn đưa người lừa ba tôi và cả nhóm tổ chức. Chúng tôi bị
dồn xuống khoang ghe gần như đã chật nức người. Họ kiễm lại và nói. Hết khách rồi cho máy dong lẹ đi. Từ nào
tới giờ tôi có biết cá lớn, cá nhỏ là gì đâu.Tôi nghĩ cá lớn chắc là các ghe đi
biển, không ngờ đây chỉ là một chiếc ghe lường được đóng cất mũi hơi cao.Từ mũi
ghe có một thanh cây chạy từ đó lên Cabine phòng lái.Tiếng máy ghe nổ xình xịt.
Ghe đi trong vùng ánh sáng mờ mờ. Có người căn dặn: Mọi người không được nói chuyện và ráng không cho con cái khóc, vì ghe
còn trong vùng nguy hiễm.Trong khoang ghe im lắng với mùi hôi của nước trộn
dầu ở dưới khoang xông lên làm vài người húng hắng bụm miệng ho.Vài đứa nhỏ
khóc. Mẹ chúng dổ dành… có người cho con uống thuốc ngủ để chúng không khóc. Ghe
chạy tiếp tục giửa dòng sông chừng hơn nửa giờ.Trên phòng lái nói khẻ xuống : Ghe sắp qua đồn công an biên phòng các người
phải tuyệt đối im lặng. Nó phát hiện được là chết cả đám. Mọi người âu
lo.Tôi cũng hồi hộp nhìn em Châu. Em cũng đang nhìn về phía chổ tôi ngồi. Tôi
nghe vài tiếng kinh cầu nho nhỏ. Ghe chạy thêm mươi phút. Người trên mui phòng
lái nói: Đã
qua khỏi đồn công biên phòng rổi... Những người đàn ông lấy những miếng váng mà
họ để đâu đó trên ghe. Họ bắt đầu ráp xiêng từ thanh cây đà xuống be ghe và
đóng đinh cộp cộp. Sau đó họ phủ lên một chiếc bạt to từ mũi đến trên nóc phòng
lái. Bây giờ khoang thuyền mù mịt tối. Nhưng mọi người nói cười hớn hở: Một anh
ngồi kế tôi nói: Tôi hên quá... mới đi
lần nầy mà được như vầy… hên vô cùng.Tôi nói: Tôi cũng vậy. Tôi nghe có người đọc kinh và nói Amen to hơn lời
kinh cầu lúc nảy. Một ai đó nói: A Di Đà
Phật con đã thoát nạn rồi. Thuyền tiếp tục chạy ra cửa biển.Những cơn sóng
lớn bủa dập dồi chiếc ghe nhiều hơn.Tôi muốn bị nôn ói nhưng cố dằn lại.Thuyền
đang chạy bổng hơi khựng lại.Thuyền bị rướng vào con lương. Máy nổ xình xịt rồi
bổng tắt ngủm. Vài người trong nhóm tổ chức nhảy xuống sông kiễm soát chân vịt.
Họ nói chân vịt bị cong…Mọi người bắt đầu hoảng sợ nhốn nháu. Có tiếng người
nào đó nói: Lấy chân vịt phòng hờ thay
liền, trời sáng rồi...Trong khoang tối om, tôi nhìn qua kẻ hở, ánh sáng
tươi tỏa rạng bên ngoài. Tôi và toàn thể các người trong ghe lo sợ. Vài phút
sau họ nói: Chân vịt thay rồi, các anh khoẻ mạnh cùng xuống đẩy ghe ra.Vài
người xung phong nhảy xuống. Chiếc ghe lắc lư một lúc rồi thoát cạn. Máy ghe
tiếp tục nổ và ghe tiếp tục chạy ra họng vàm. Tháng 12 sóng gió bổ cồn ầm ì. Ghe chao nhồi lắc lư.Tôi
bị ói tiếp và nằm vã ra với cái đầu choáng váng. Em Châu cố gắng lách qua mọi
người đến ngồi gần tôi. Em cuối gầm đầu ói ụa.trước khi đi ba có gói cho tôi
một gói xâm Cao Ly thái nhỏ.Tôi cố mở gói ra cho vào miệng mình một lát nhỏ và
em Châu một lát nhỏ. Cơn sóng dập dồi chiếc ghe càng lúc càng nhiều. Các đứa
trẻ bắt đầu khóc ré. Trong Cabine có tiếng người đàn bà nói to: Anh ơi! mấy đứa con mệt lắm rồi.Có người
nói vọng xuống từ nóc phòng láy: “Ráng
xức dầu nóng cho con”.Tôi đoán đây chắc là vợ con của chủ ghe? Sau đó một
cơn sóng to đánh mạnh vào ghe. Nước tích tụ nhiều trên tấm bạt, nước mở toạt
một gốc miếng bạt, nước tràn ụp vào khoang ghe…Có tiếng quát tháo: Các anh khoẻ mạnh giúp một tay tát nước ra, không
thôi ghe bị chìm. Anh bạn nằm gần tôi ngội dậy và vài ba người nữa cũng bật
dậycùng tát nước.Trong Cabine tiếng vợ của chủ tàu nói to trong tiếng khóc: Anh ơi! Quay ghe vào đi, mấy đứa nhỏ sắp
chết. Không có tiếng hồi đáp. Có người nói: ĐM phải đi, quay vào là chết hết cả đám….Tôi toát lạnh cả người. Ôi!
Nếu ghe quay mũi vào thì chết thật. Sau một hồi tát nước mõi mòn… vài anh xuôi
tay. Bổng nhiên nước biển đánh úp vào với một lượng nước lớn làm đổ sập một gốc
váng. Có ai đó nói: Ghe bị bể vở rồi phải
vô thôi….Nhiều tiếng chưởi thề cộng với lời kinh cầu nguyện lại vang lên. Chiếc
ghe quay mủi vào bờ. Lúc nầy sóng thôi đánh nhiều vào thành ghe.Tôi tỉnh hẳn
nhìn em Châu và nói: Em giử cho hia cái
giỏ đồ…nếu chạy trốn được hia sẽ cố
chạy…ghe khựng lại vì đã vào gần bờ. Tôi nhìn lên bờ thì thấy dân chúng dàn
hàng ngang trên bờ cát, vài tên du kích bắn súng chỉ thiên báo động.Tôi nói với
em Châu.Thôi…bị bắt lại hết rồi…!.Em
khóc thút thít…Chiếc dừng hẳn. Mọi
người dìu nhau nhảy xuống nước bơi vào bờ. .. Tôi nhảy xuống trước và đở em Châu
xuống sau. Chân tôi chạm cát, nước ngập tới hơn ngực.Tôi cố gắng bơi vào bờ. Sóng
to dội vào, cát lày hỏng bước dưới chân, tôi bị hụt hẩn chới với nhưng cố sõi
tay bơi...Khi tôi ngoái nhìn về phía sau thì không thấy em Châu ở đâu? Em đang
bị chìm dưới nước. Tôi cố lội ngược ra về phía em và nắm được mái tóc em…Tôi dùng
sức tống của đôi chân quảy mạnh đẩy thật mạnh em về phía bờ. Em đã ngoi lên
được phía gần chổ cạn hơn.Tôi bơi nhanh vài sảy và nắm lấy bàn tay em. Chúng
tôi đi lắc lư trong cơn sóng vổ nhẹ vào bờ….Lúc nầy có vài tên công an mặc sắc
phục tới. Họ bắt thanh niên ngồi riêng và phụ nữ ,trẻ em ngồi riêng. Du kích
đến lấy dây rau muống biển cột từng người bên phía đàn ông. Mọi người ngồi cuối
mặt buồn bã.Viên sĩ quan công an rút súng gỏ vào đầu mỗi người một và nói: Các anh là lũ phản động, giờ nầy đất nước
độc lập mà còn vượt biển để theo bám chân Đế Quốc Mỹ. Tội các anh là tội chết...Tôi cuối gầm đầu thêm và chờ cho cái gỏ
kế tiếp vào đầu mình. Gã công an nói tiếp. Với chánh sách khoan hồng của đảng…tao không
thể giết tụi mầy. Nếu không….Bùm…Bùm…vào đầu cho tụi bây chết! Tôi nghĩ thầm: Cũng
là cái lủ con vẹt. Tao đã nghe câu nầy không biết bao lần rồi…Nghĩ đến đây
tôi bị lạnh toát thêm mồ hôi. Mình là sĩ quan đi tù mới về ít lâu…bị bắt kỳ
nầy….?!
Một tên du kích tới kêu
các người đàn ông đi xuống ghe khiêng đồ lên. Đó là thức ăn như: gạo xấy, mì gói, nước
uống đóng chai, những quầy dừa tươi và dầu chạy máy ghe.Tôi cũng là nguời trong
số người đi khuân tải đó. Khi đi ngang các người dân.Tôi nghe họ nói: Chiếc ghe không bị bể gì hết. Với cái máy 2
đầu bạc mơi toanh đi tới đâu mà hỏng tới. Mấy người tới số thiệt rồi…! Tôi
nghĩ bụng ghe không bị bể nhưng vì bọn
chủ ghe nghe vợ con ngất xỉu nên mới hô hoán để cho ghe vào…Thật là không may
…!
Mọi người xếp hàng hai đi lần về phía bên
trong, đứng trước một căn nhà lá và bắt đầu đi vào bên trong để ghi tên cùng
lột các đồ trang sức giao cho một tên ngồi nguệc ngoạc vào cuốn sổ giấy. Người
ghi danh nói: Các anh để lại hết, chừng
nào giải quyết xong sẽ trả lại cho các anh. Cho tới lúc vào tù đến khi về, các
món tư trang kia không bao giờ trở lại với chúng tôi. Họ đã chia chát với nhau
hết rồi…!
Một lúc sau họ cho chúng tôi ăn uống với mấy
gói mì gói và nước lã. Khoảng độ vài tiếng sau, chúng tôi xếp hàng hai tiếp tục
đi. Họ nói giãi chúng tôi về Công An Huyện
Long Toàn. Đi một lúc chúng tôi dừng lại để chờ ghe chở về Huyện. Chổ ghe
tấp vô là Cồn Cù. Nơi tôi và gia đình tôi có một thời gian lánh nạn Cáp Duồn chảy
tản cư về đây. Kể từ đó đến nay tròn 40 năm, qua biết bao cuộc thăng trằm…bước
chân xưa bay nhảy trẻ thơ, bước chân bây giờ đang nặng nề lê bước. Hai bước
chân một khoảng đời 40 năm…
Cuối cùng chúng tôi bị dồn vô nhà tù Công An Huyện.
Sau khi bị tra vấn với công an Huyện. Chúng tôi bị đưa đi Bến Giá lao động. Số
người trong bọn tổ chức họ khéo lo, hình như mỗi người 3, 4 cây vàng…và họ được
cho về sau đó vài tuần.Vàng bạc họBọn tổ chức đã thâu tóm từ những người đì vượt
biển ít ra cũng vài cây vàng cho mỗi đầu người thì với số tiền đúc lót như trên
thì có hề hấn gì với họ đâu. Cái thiệt thòi vẫn là những người góp tiền cho họ
để được lên ghe. Nhờ sự lo lắng chạy vại của ba má và vợ tôi.Tôi được đưa về
nhà khi chưa hết thời gian 2 năm lao động bằng cửa lo lót. Một bản án không có
trong luật nào ghi trong bản hiến pháp của chế độ. Cái trớ trêu nữa là người đưa
tôi về với thù lao 5 chỉ vàng là viên sĩ quan công an trước đây gỏ vào đầu tôi đòi
bắn bỏ…!
Từ sau
đó tôi lên Sài Gòn và tạm sống tại nhà anh chị vợ chồng Ngọc, rồi nhà anh chị
Minh. Hai người bạn thân thiết thuở còn đi học đến bây giờ. Thời gian ăn nhờ ở
đậu ở đây, tôi thấy thời gian dài lê thê với nhiều âu lo cho một ngày mai vô
vọng. Ba má và vợ tôi tiếp tục tìm đường để tôi thoát khỏi Việt Nam. Vợ tôi
phải lội qua tới Nam Vang để tìm mối đi bằng đường bộ.
Sau
chuyến đi Cambochia về, vợ tôi có đem về một lá thư viết tay của một người trước
đây là lính cảnh sát của đứa em, là rể của người chú thứ Sáu, trước 75 làm Trưởng
Cuộc Cảnh Sát ở Quận Long Toàn. Qua bức thư nầy, đứa em rể dẩn vợ và 2 đứa con
trai qua đó để được hướng dẩn vượt rừng qua Thái Lan. Vợ tôi nói nếu tụi nó đi
xong thì chúng tôi cùng các con sẽ đi tiếp. Một tháng…Hai tháng…và một năm trôi
qua vô âm tính…Người ta đồn chắc gia đình của đứa em bị lạc trong rừng, bị cướp
hoặc bị bọn Pôn pot giết chết…Tội nghiệp cho hai vợ chồng đứa em và 2 đứa con
trai còn non khờ phải chết đâu đó trong rừng biên giới Miên&Thái! Nhiều người
vượt thoát bằng cách đi xuyên qua rừng được đến đấtThái. Họ kể lại cho tôi nghe
lúc tôi gặp họ ở Trại PRPR ở Phi Luật Tân. Họ kể lại nhiều chuyện rất hải hùng.
Đa số các gia đình ra đi bằng đường bộ bị chết vì họ bị bọn đưa đường lường gạt.
Họ đưa các gia đình vào rừng một đổi, rồi vờ vỉnh chỉ dẩn “Cứ đi hướng nầy sẽ tới…”Họ
bỏ mặc cho những gia đình trong rừng sau khi đã lấy một số vàng, bạc. Các gia đình
nầy bị lạc trong rừng bị chết đói, chết khát...hoặc chết dưới tay bọn Khơme Đỏ
hoặc bị bọn cướp rừng giết hại, dã man…Với những người được hướng dẩn chu đáo
thì họ đến được các trại Thái ở biên giới. Trên đường đi trong rừng rậm đôi khi
họ thấy những đống xương người hoặc những xác khô chết, tựa vào thân cây, có
khi cả gia đình với nấm xương khô…Tôi mường tượng chắc gia đình đứa em tôi cũng
chết theo một cách nào đó trong khu rừng biên giới nầy. Khi đến được đất Thái,
họ cũng sống trong một thời gian ở các trại nằm dọc theo biên giới trong sự đối
xử rất dả mang của bọn lính Thái. Họ bị đánh đập và sống trong điều kiện thiếu
thốn mọi mặt. Bọn lính Thái còn hảm hiếp các phụ nữ và trẻ gái một cách tàn nhẩn.
Trong thời gian ở trại PRPR, tôi có gặp một cô gái với thân xác tiều tụy, cô là
con của anh Thượng Sĩ làm việc ở Tiểu Đoàn Quân Y mà tôi từng quen biết. Cô không
ngần ngại kể cho tôi nghe ngày tháng cô bị hãm hiếp ở trại Thái…cuối cùng cô khóc
nức nở vào nói: “Chú ơi! Cháu bây giờ bị
bịmh SIDA…chỉ chờ chết thôi…chắc cháu chết trước khi được đi định cư ở Mỹ….!
Hú hồn! Nhờ chuyến
đi mất tích của gia đình đứa em mà vợ chồng tôi thôi bỏ ý định vượt biên bằng
đường bộ…!
Ba lại đóng tiền
cho tôi tiếp tục qua nhà người cô bà con ở Sóc Trăng để chờ ngày đi tiếp. Bây
giờ tôi phải lựa chọn con đường để đi…không
còn chần chừ như lúc trước nữa...!
Ở nhà người cô được vài tuần… Ngày đi lại
đến, người dẩn đường đưa tôi ra bến xe đò để đi về hướng Cà Mau. Xe đổ lại ở Giá
Rai thuộc tỉnh Bạc Liêu.Tôi được đưa xuống chiếc xuồng, ở đó có một người thanh
niên trẻ coi bộ giống người Chợ Lớn hoặc người Tiều Châu ở Sóc Trăng đang ngồi
dựa lưng trên thành be trong chiếc mui xuồng mà hai bên đầu trước, sau có che
miếng vãi nilong. Chúng tôi ngồi bên trong với mỗi người một giỏ đệm đựng mớ đồ
đem theo. Thuyền chèo tay theo dòng kinh xáng từ Giá Rai đi về hướng Cà Mau. Xuồng
qua Hộ Phòng, xuồng đi ngang bến sông Cà mau.Từ Giá Rai đến đây có hơn hai ngày, đêm. Chúng tôi dừng lại tại
bến sống dập dìu ghe xuồng. Người chèo xuồng nói với chúng tôi ở yên trong
khoang, anh lên bờ mua bánh tét và nước.Trời đã xế chiều nước sông hắt lên mùi
hăng hăng của tôm cá và mùi mằn mặn của vùng nước lợ có nhiều chất bùn. Tôi
không muốn nói gì với anh thanh niên vì sợ các chiếc xuồng có người cấm sào gần
đó nghe được. Người vùng nầy đa số là dân của “Cách mạng”. Họ mà biết được thì
họ sẽ báo cáo với công an ngay. Anh bạn nầy thì cứ xoây trở vì cái thân hơi
nhiều thịt và cái bụng to. Lâu lâu anh xì hơi mùi khó thở.Tôi bụm miệng ráng
tránh khỏi bị ụa ói. Chưa kể anh có thêm mùi hôi nách luôn dội vào 2 lổ mủi của
tôi mùi tanh và chua.Thật là một cực
hình cho tôi phải chịu đựng trong suốt mấy này qua…Còn bao lâu nữa đây trời…?
Khi anh chèo xuồng trở lại thì trời tối
hẳn.Con nước cũng dựng ròng, anh nói: Bây
giờ xuôi nước rồi chúng ta đi.Anh bước ra sau chiếc xuồng và đưa cho chúng
tôi một xâu bánh tét loại nhỏ bằng cườm tay. Tôi thấy hơi đói nên bốc ra một
đòn, bốc vỏ lá ra và ăn ngon lành. Chiếc xuồng trôi từ từ theo từng chập của
đôi quay chèo.Vì nước xuôi lại đi vào con rạch nhỏ hơn nên tôi có cảm giác
chiếc xuồng lướt nhanh hơn. Ánh trăng lúc nầy hiện một vầng trắng trên nền trời
đầy sao. Con rạch nhỏ, bề ngang chắc cở hơn 10 mét là cùng. Tôi còn nghe được
tiếng người nói chuyện trên bờ. Người chèo xuồng vạch miếng nilong nói với
chúng tôi. Khúc nầy có nhiều trạm kiễm
lâm. Xuồng đi ra nó ít kêu xét, nhưng
mọi người nên cẩn thận không được trò chuyện.Có mắc đi cầu thì nói cho tôi
biết, đến khúc nào được tôi ngừng để đi. Nghe nói đến trạm kiễm lâm, tôi
hơi ái nái, lỡ nó kêu lại thì sao? Tôi có đem theo một khâu vàng 2 chỉ.Tôi buột
khâu vàng vào sợi chỉ và dấu ở bên trong hậu môn.Tôi dự phòng nếu có bị lộ và
bị bắt thì còn vốn để lo toan. Đến một đoạn rạch, tôi thấy có ánh đèn dầu tỏa ra một vệt
trên mặt nước. Một ai đó nói. Đêm tối như vầy, tụi mầy coi chừng tụi vượt biên nghe.. .Tôi nghe đánh thót trong tim hồi hợp.Tiếng phát ra như rất
gần.Tôi đoán đây chắc là cái chốt của bọn công an kiễm lâm. Người chèo thuyền
cứ nhởn nhơ chèo chậm lại.Tôi lo sợ: Không
biết tên chèo xuồng nầy có nộp mình cho chúng không? Xuồng đi qua không có
tiếng ai gọi.Tôi nghe nhẹ nhỏm trong lòng. Cái anh chàng béo bự đã ngủ ngái khò
kho. Suốt đoạn đường đi hôm đó tôi phải giựt thói lo sợ vì có nhiều chốt kiễm
lâm như vậy.
Xuồng
chèo ra khỏi con rạch ra cửa sông rộng lớn. Nước loé ánh lân tinh qua các
thuyền ghe chạy bên ngoài. Có một chiếc xuồng tấp lại nói với người chèo chiếc xuồng
của tôi. Tôi nghe lõm họ nói với nhau: Tới
giờ nầy rồi mà chưa thấy con cá lớn.Tao bơi mấy vòng mà chưa có dấu hiệu gì? Nói
xong chiếc xuồng kia cùng chiếc của tôi chèo về một điễm tập trung. Đến nơi một vùng rậm rạp
với nhiều cây bần cao che bóng trăng.Tôi thấy nhiều chiếc đã tụ lại ở đó. Đây
là vàm Kinh Cả Ngai sau nầy tôi mới biết. Ngoài sông có nhiều chiếc võ lãi rọi
đèn lướt qua…Có ai đó nói: Tụi mình bị lộ
rồi. Ai nấy nên chạy vô rừng. Thằng bụng phệ đi với tôi thế mà nhanh. Nó
bước ngang tôi và nhảy xuống bờ. Mọi người cũng làm như vậy.Tôi nấn ná và nói
với người chèo xuồng của tôi: Chú đừng bỏ
tui nghe.Tôi đưa cho chú 2 chỉ vàng và nói:Chú bỏ tôi lên bờ và trở lại cứu tôi.Tôi bối rối vô cùng vì lên
rừng tôi chạy đi đâu?Thà giao cho chú nầy 2 chỉ còn có hy vọng. Nếu bị bắt thì
2 chỉ cũng sẽ mất.Tôi phải làm một việc để cầu mai. Người chèo xuồng nhận 2 chỉ
vàng và chỉ tay về hướng một cây bần cao ở bên trong và nói:Chú chạy lại đó.Cháu đi xem tình hình rồi lại rước chú về. Tôi
chạy nhanh về hướng cây bần và ngồi mọp xuống với lớp đất bùn. Những ngọn chà
là với gai nhọ hoắc đâm vào chân và mong tôi đau nhói. Lúc nầy ngoài vàm xuất
hiện các chiếc võ lãi nhiều hơn. Có chiếc chạy ngang chổ tôi nằm quẹt một vòng
đèn pha sáng.Tôi ép mình sát dưới đất bùn hơn. Chiếc võ lãi đi qua.Tôi nằm đó
hơn 15 phút và nhìn ra vàm kinh. Lúc nầy các chiếc võ lãi không còn chạy trên
vàm nửa. Có lẻ chúng chỉ tìm bắt các chiếc xuồng chở khách còn trên vàm.Còn số
người chạy lên rừng…? Chắc ngày mai họ mới lùng bắt. Gần một tiếng trôi qua
trong âu lo.Thoáng trước mắt tôi thấy một chiếc xuồng không mui, mái chèo vít
mặt nước những đường loé trắng xanh. Xuồng bơi về hướng tôi đang nằm.Tôi nghĩ
là xuồng ai đó vì chiếc xuồng tôi đi có mui. Chiếc xuồng tấp lại.Tôi nghe tiếng
gọi chú ơi! Tôi mừng rở đi về hước
ấy.Thì ra là xuồng của chú đưa tôi đi.Tôi nghĩ: Chú nầy tốt thật.Trên xuồng lúc nầy có một mớ củi. Chú kêu tôi cởi
áo và mặc chiếc áo của chú. Nghĩ một giây, chú kêu tôi bỏ chiếc quần dài.Trút
chiếc quần dài ra.Với đôi chân trắng
bạch. Chú bão tôi trét bùn lên cho đen và đưa
cho tôi chiếc nón lá. Chú đứng chèo lái còn tôi ngồi mũi bơi bằng dầm. Sau đó
chúng tôi bơi ra vàm. Ngoài xa tôi thấy một chiếc tàu lớn với ánh đèn sáng
choang. Chú bơi đâm thẳng về hướng ấy. Xuồng đến gần chiếc tàu.Trên tàu rọi đèn
pha xuống và la lớn: Mấy cha nội bơi đi
đâu vậy?Tụi nó vượt biên, tụi tao đi lùng bắt tụi nó…lạng chạng ở đây coi chừng
bị bắt nghe hong. Chú chèo xuồng nói
lớn: Xuồng củi anh ơi.Tôi thấy phía kia
có tụi vượt biển nên bơi về hướng nầy. Ai đó trên tàu nói:Thôi bơi đi chổ khác đi cha nội.Tôi hồi
hộp… nhưng nghĩ chú nầy khôn lanh thật, nếu bơi xa xa không chừng bị chúng bắt.
Chú làm như mình là người ngay đâu sợ tàu tuần.Tôi niệm Phật “Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát…”
Chú chèo tách xa chiếc tàu và đi về phía sâu
vào con sông hướng về Cà Mau. Từ đó tôi chỉ ngồi trên đống củi. Chú dặn có ai
hỏi thì nói chú ở Cà Mau kiếm đất ỡ dưới nầy để mua nghe.Từ đó cứ nước xuôi thì đi, nước ngược
thì tấp vô bờ nghĩ.Thường chú ấy tấp vô chổ mấy xuồng đi kiếm củi xen với mấy
chiếc xuồng buôn bán trên sông. Khi đậu gần ghe xuồng ai đó tôi bối rối âu lo sợ
người ta hỏi hang…rồi bị lộ. Cũng may không ai hỏi tôi mà chỉ hỏi chú chèo
xuồng. Xuồng lại đi khi con nước xuôi…đi một đổi khá xa.Chú tấp xuồng vào một
quán nước bên dòng song và kêu tôi lên uống nước.Lúc nầy tôi đã mặc chiếc quần
dài và chiếc áo cũ của tôi mang theo.Bước vào quán tôi thấy 2 người công an
đang uống nước dừa .Chú kéo ghé kêu tôi ngồi và gọi 2 trái dừa xiêm.Chú tỉnh bơ
nói với tôi.Tiếc qua phải hong chú.Hụt miếng đất đó thật uổng.Cháu sẽ dẩn chú
tìm miếng đất khác.Chị chủ quán nói.Bây giờ ở Cà mau người ta đổ về đay mua đất
nhiều, nên khó mua lắm.Tôi ậm ờ, ừ hử cho
qua chuyện.Anh người công an ngồi nói chuyện về hồi hôm ở vàm kinh có bọn vượt
biển….Chúng tôi trà tiền và cùng bước xuống xuồng chèo tiếp theo con nước đang xuôi.Tôi thấy phục cái chú chèo ghe
nầy.Tương kế tửu kế. Tôi cũng đang lo sợ họ chận xét đường về…cái cách chú làm
xem ra hiệu quả khó ai đoán về chúng tôi.Cứ thế 3 ngày 4 đêm chiếc xuồn mới tới
bên Cà mau.Lúc nầy cơn mưa như trút.Tôi trùm miếng nhưa để kỏi ướt.Sau khi
chóng sào giử chiếc xuồng.Chú nói với tôi: Cháu lên bờ kiếm đồ ăn và hỏi tôi
còn tiền không.Tôi nói:
-Còn vài trăm đồng.Chú chìa tay ra và nói:
-Chú
đưa một trăm lên mua đồ ăn. Gần một tiếng ngồi trong mưa lạnh buốt.Cộng với bao
nổi sợ vừa qua.Tôi thất cơ thể như bị mềm nhảo ra.Tôi nghĩ không thể ngồi trên
xuồng để chú chèo tôi vể chổ cũ.Khi chú trở xuống.Tôi nói với chú: Tôi muốn
dung xe về lại nhà cô tôi ở Bạc Liêu. Chú ấy nói để cháu bơi ra ngoài rạch gần
lộ xe để chú về.
Tôi lên bờ đến một nơi vắng vẻ và đứng bên vệ
đường chờ xe.Chiếc xe chạy về hướng tôi.Tôi đua tay vẩy. Xe ngừng.Tôi ôm giỏ
đệm bước lên xe trong thời gian trời vừa mờ sang.Về đến nhà cô Bảy tôi.Thấy tôi
cô giật mình vì từ ngày đi đến giờ gần hơn tuần lể.Cô khuyên tôi nên về Sài Gòn
ngay. Trở lên Sài Gòn.Tôi bị đau thần kinh vì trong bảy ngày với nhiều lần suy
trầm quá mức.Vợ tôi ở dưới tỉnh được chị bạn báo tiđưa tôi vào nằm ở bệnh Viện
An Bình gần nửa tháng.Tôi nói với vợ tôi khi xuất viện: Anh sẽ không bao giờ đi
vượt biển nữa! Với quyết định như vậy tôi tìm cách làm sao có công việc ổn định
để mưu sinh và nhất là phải có cơ ngơi để ở và lo cho các con tôi ăn học.Tôi
không thể sống nương tựa với nhà của bạn bè về lâu và về dài được.Tôi đến nhờ
vị thầy cũ, trước đây là Giám Đốc Trường Dược tá Quốc Gia, có lúc thầy giử chức
vụ Đổng Lý Bộ Y Tế của chế độc cũ. Qua mối quan hệ với bên vợ thầy là người gốc
Mé Láng thuộc quận Long Toàn có người có chức vụ lớn trong chánh quyền mới cộng
lại với thời kỳ đổi.Thầy lập một công ty hơp doanh chuyên san xuất thuốc tây y.
Thầy là một người yêu nghề nghiệp và rất có tình với anh em đồng nghiệp và nhóm
học trò cũ của Trường Dược Tá. Công ty thầy hầu hết nằm trong nhóm đó.Tôi được
biết một số anh em đồng học của tôi được thầy thu dụng. Được sự hổ trợ và
khuyến khích của bạn bè đang làm ở công ty, tôi bậm gan đế gỏ cửa văn phòng và
xin thầy giúp đở. Thầy hỏi: Em có hộ khẩu ở Thành Phố không? Tôi nói : Thưa
thầy không có và kể lể tình cảnh hiện tại của tôi cho thầy nghe.Thầy ngồi im
lặng một hồi lâu rồi gật đầu nói:Thầy sẽ ráng giúp em. Với sự chấp thuận của
thầy lúc đó làm tôi vui như vở òa nước mắt. Thầy thật là một vị thầy đức độ vô
cùng.
Có công việc làm ổn định.Tôi gởi thư sang Úc xin các em tôi một ít
tiền để kiếm một căn nhà để đem vợ con cùng lên Sài Gòn. Các em tôi gồm bốn đứa
đi Vượt biển năm 1978 và định cư tại Úc hơn 5 năm qua đả chắv mót gom về cho
tôi để sang mua lại một căn chung cư ở quận Mười. Vì không có hộ khẩu,tôi nhờ
một người bạn thân cùng họ Huỳnh đứng là chủ hộ. Anh bạn nầy cùng sống chung
với vợ chồng tôi tại đó.
Thế là
mọi chuyện xem ra đã ổn, tôi ngày hai buổi đạp xe đi làm.Vợ tôi ở nhà lo cơm
nước và đưa các con tôi đi học.
Cuôc sống đã như bình lặng, nhưng một nỗi lo
toan nào đó cứ như quanh quẩn trong đầu tôi giống như con thuyền trôi theo dòng
nước bập bềnh với nhiều cơn sóng gợn lớn nhỏ đập vào mạng be. Con thuyền cứ
trôi như mệnh đời không định. Mỗi ngày sống là mỗi ngày va chạm với những nỗi
hoài nghi, thủ thế. Mọi người xung quanh dường như không còn nhìn nhau thân
thiện, cởi mở như dạo nào. Sự thay đỗi của chế độ mới đã kéo theo những những
ngờ vực trong mọi cách xử thế. Mọi người lo sợ và luôn bị ám ảnh một nguy khốn
nào đó chực chờ úp chụp lấy mình. Một người sĩ quan của chế độ cũ, một kẻ bị
loại ra ngoài theo một cách nào đó và cả con cái của tôi cũng chịu số phận cái
lý lịch nầy của tôi.Tôi nghĩ rồi đây tương lai các con tôi sẽ ra sao với sự
phân biệt đối xử nầy…! Tôi bị bít lối và cam đành giống như những ngày tháng
đành cam trong trại cải tạo. Cái khác bây giờ là ra ngoài một vòng vây lớn hơn
cái vòng vây của trại tù.
Thường ngày sau buổi cơm chiều.Tôi hay ngồi
trên chiếc ghế tựa lưng đạt nơi hành lang chung cư trước nhà ở lầu một nhìn
xuống phía dưới là khu chợ nằm giửa hai khu chung cư. Buổi chiều chợ vắng vẻ, các
sạp buôn bán đống cửa.Những người hành khất đi tha thẩn nhặt đồ ăn rơi rớt hoặc
các mảnh giấy, mảnh nilon dồn vào bao đựng để bán kiếm chút tiền độ nhật. Đám trẻ con mặc quần đùi
chạy đuổi nhau la lối in ỏi. Phía bên kia gốc cầu thang, một thiếu phụ ngồi
quạt cái lò nấu cơm chiều. Người đàn ông, chắc là chồng của chị kéo miếng mủ
nhựa che ánh nắng cho đứa con đang nằm ngũ. Các khoảng trống dưới gầm cầu thang
trước đây trống trãi. Bây giờ người ta chen chút nhau sống dưới đó, có khi cả
gia đình con cái cùng ở.Tất cả ngỏ ngách chung cư nầy đều đầy người. Lẩn lộn
trong số người nầy có nhiều gia đình bị đưa đi vùng kinh tế mới trở về. Cuộc
sống ở đó quá kham khổ. Họ chịu không nỗi nên kéo nhau về lại thành phố. Nhà họ
bị chánh quyền quản lý. Không nơi nương náo nên đành sống chui rúc ở các gốc
cầu thang hay gầm cầu. Thành phố càng lúc càng đông người vì lẻ lớp người mới
từ các miền quê trong Nam cũng như ngoài Bắc làm việc cho chánh quyền dồn về.
Họ chiếm cứ các căn nhà của các gia chủ bị đánh tư sản hoặc các căn nhà của các
sĩ quan, công chức làm việc trong chánh quyền cũ bị đi Cải Tạo hay đã bỏ nước
ra đi trước ngày 30 tháng Tư năm 1975.
Sài
Gòn bây giờ đổi tên. Sài Gòn bây giờ xa lạ với những tên đường, ngỏ phố. Sài
Gòn bây giờ nhốn nháo lo toan. Sài Gòn bây giờ có hai lớp người: Một lớp mới
tính toán chiếm đoạt. Một lớp thị dân cũ nhốn nháo lo sợ vuột mất đời sống an
bình. Sài Gòn có những khoảng đất trống cỏ mọc loang lở vì chủ nhà giở dọn về
quê. Sài Gòn lúc nầy không ai muốn ở lại
mà muốn có dịp để ra đi. Sài Gòn giờ nói riêng, cả miền Nam giờ nói chung, trước
đây còn mơ hồ về Cộng Sản. Bây giờ tất cả đã biết Cộng Sản là ai…! Nhưng quá trể
rồi…! Đất nước đã rơi vào sự kèm kẹp của bạo quyền Cộng Sản với danh hiệu mỹ miều
là “Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghỉa Việt Nam”
Khi
trên dòng bước của cuộc đời bị vướng vấp, với sự ước mong đi về một hướng nào
đó, người ta luôn cố gắng nhất chân, cởi trói đề bươn chạy về phía trước. Nếu
chúng ta đừng tuyệt vọng thì một lúc nào đó chúng ta sẽ đạt được mục đích “Cùng
Tắc biến, biến tắc thông” mà…. Hảy biết chờ đợi… Sự chờ đợi của tôi đã có kết
quả, khi trong một buổi chiều ngồi trên hành lang trước căn nhà ở chung cư. Anh
vợ của tôi từ Chợ Lách mang một bức thư của Bộ Nội Vụ. Gia đình chúng tôi được
chấp thuận cho đư ợc đi Mỹ với diện con lai.
Năm
1983, trong một chuyến lên Sài Gòn thăm gia đình của một người bạn thân.Vợ anh
bạn biết gia đình tôi có một chú bé lai Mỹ. Chị nói với tôi về chuyện chính phủ
Mỹ có chương trình cho các đứa con lai được đi Mỹ cùng với gia đình. Chú bé bị
mẹ bỏ rơi sống hằng ngày ở khu chợ Trà Kha nơi chiếc xe đò của người em trai
tôi thường làm nơi xuất phát trong một
ngày chuyên chở hành khách. Mỗi chiều xe đậu lại qua đêm tại đây.Thằng bé lai
đến quét dọn rác trên sàng xe, dổi lại nó được em tôi cho một số tiền nhỏ để
tiêu xài. Công việc của thằng bé quen dần cho đến vài năm thì nó được em tôi
cho theo xe làm một chú lơ nhí. Cũng từ đó nó thường ghé nhà ba má tôi. Nó gọi
người trong gia đình tôi như là một đứa cháu nội trong nhà.Vốn thương những
người neo đơn, nghèo khó ba má tôi xem nó như một đứa cháu đáng được giúp đở. Má
tôi cho nó những bộ đồ của các em tôi lúc còn chang tuổi cho nó. Nó khôn ngoan,
láu lỉnh gọi vợ tôi bằng má. Năm 1978 lúc tôi từ trại cải tạo về. Khi lần đầu
gặp tôi, nó trố mắt nhìn tôi và hỏi: Ai vậy má.Vợ tôi mĩm cười và nói ba mầy
đó. Nó kêu tôi một tiếng ba…rồi chạy ra ngoài lo dọn một số đồ đạc trên xe đậu
phía trước nhà. Căn nhà trước đây ba má mua để cho anh em chúng tôi ăn ở và đi
học cấp Trung Học ở đây…Vợ tôi bắt dầu kể mọi việc về đứa bé nầy cho tôi nghe.
Nhân chuyến từ Sài Gòn về Trà Vinh thăm quê, chị có ghé thăm gia đình tôi. Tình
cờ chị thấy thằng bé lai trong nhà, sau khi hỏi han đôi điều về nó, chi đốc thúc
và chỉ dẩn vợ tôi làm giấy tờ con nuôi cho nó để nộp hồ sơ đi Mỹ theo diện con
lai. Chị nói ở Sài Gòn người ta nộp đơn rất nhiều đó là năm 1983. Sau khi nghe
vợ tôi thuật lại mọi chuyện, ba nói với vợ tôi: “ Con cứ lo đi tốn bao nhiêu ba cho”. Chú Năm tôi nói với vợ tôi đề
chú chạy lo giấy khai sinh cho nó. Khi có được giấy khai sinh, vợ tôi đem lên
Sài Gòn nhờ chị Cúc giúp chuyển nộp giấy tờ. Cũng đồng thời lúc nầy có tin
chánh phủ Mỹ sẽ chấp nhận hồ sơ cho các sĩ quan đi cải tạo được đi Mỹ. Tôi lại
làm thêm một hồ sơ gởi qua Tòa Tổng Lảnh
Sự Mỹ ở Thái Lan. Trong lý lịch tôi ghi thêm gia đình có đứa con nuôi lai Mỹ.
Hồ sơ chỉ được gởi chui qua một người quen làm ở Bưu điện Sài Gòn, dỉ nhiên
phải có tiền hậu tạ…
Hồ sơ
chuyển đi nhưng biệt vô âm tính. Đời sống của gia đình tôi đã trải qua nhiều khúc
quanh gian khổ. Tôi cố gắng tìm mọi cách xoay trở và cam lòng trong một hoàn cảnh
vô cùng khắc nghiệt của một xã hội đầy tráo trở, nhẩn tâm…Mỗi ngày tôi phải nhẩn
nhục đế cố vượt qua mọi tình huống để lo cho gia đình, nhất là các đứa con tôi còn
quá nhỏ, nhưng những cơn va chạm cứ xấn tới vùi dập cả tinh thần và thể xác, bắt
buộc tôi phải có một chọn lựa…Tôi không còn chọn lựa nào khác là phải tìm cách
vượt thoát ra khỏi đất nước nầy. Nhưng tôi không đạt được ý nguyện mà còn lâm vào
sự khốn đốn thêm ra. Có lúc tôi bị chấn động thần kinh và phải nằm điều trị tại
bệnh viện hơn cả tháng về tâm thần. Tôi quá nản lòng và thấy sẽ không có con đường
nào khác hơn là đành chịu ở lại nơi đất khổ nầy…! Cái vấn nạn lớn của tôi là không
thể về quê được vì lẻ tôi là người trốn “ Trại cải tạo lao động” khi chuyến đi
vượt biển vừa qua của tôi không thành và bị bắt lại. Mặc dù chuyện trốn trại là
do tổ chức của công an và trại giam đưa tôi về, nhưng dù sao cũng là người “Vượt
Trại”, công an địa phương nơi tôi đang cư trú có chắc để yên cho tôi không?.Tôi
đành bỏ quê lên Sài Gòn để nương thân. Cái may mắn cho tôi là đã chuyển hộ khẩu
về quê vợ ở Chợ Lách. Nơi đây chắchọ không biết về chuyện “vượt trại” của tôi,
vã lại vợ tôi có người chú bà con đang làm công an xã ở đó. Chúng tôi làm đơn
xin tạm vắng lên Sài Gòn và tạm trú nhà anh chị Minh&Cúc. Hai người vốn là
người đồng hương và bạn học lúc còn thời Trung Học. Ăn nhờ ở đâu nhà bạn bè chỉ
là tạm bợ đôi ba tháng, chứ không thể lâu dài được.Tôi viết thơ bàn với ba má tôi
nói rỏ ý định tìm một căn nhà để cho có nơi ổn định. Tôi viết thư nhờ các em tôi
đi vượt biển từ năm 1978, nay đã định cư ở Úc, một số tiền để mua một căn chung
cư ở Sài Gòn. Các em tôi ở Úc đồng ý và gởi về cho tôi 3 chỉ vàng để tôi sang lại
một căn chung cư thuộc vùng Quận 10 gần chợ và gần trường. Hồi nầy ai có hộ khẩu
ở Sài Gòn mới đứng chủ hộ được.Tôi nhờ một đứa bạn than cùng họ với tôi có hộ
khẩu ở thành phố đứng ra làm chủ hộ. Chuyện sang nhượng thì với sự đồng ý qua các
văn bản viết tay giửa tôi và chủ nhà chứ không ra chánh quyền.Thực ra hồi nầy các
căn hộ chung cư chánh quyền không cho buôn bán, tuy nhiên ai có hộ khẩu trong căn
hộ thì xem như được ở. Công việc kiễm soát là do công an khu vực. Người mối may
cho tôi chỉ cách cho tôi đem qua biếu đến công an khu vực. Mọi chuyện xem ra hoàn
tất rất tốt đẹp. Người bạn thân vì là công nhận viên làm việc cho công ty Hộp
Doanh Dược Phẫm.Công ty nầy do vị thầy cũ là dược sĩ giám đốc trường Dược Tá Quốc
Gia, nơi tôi và đứa bạn học thuở trước. Người bạn chỉ vẻ cho tôi đến xin thầy để
có một công việc làm tại đó.Thầy có thời gian làm Giám Đốc Nha Tiếp Vận Dược Liệu
và Đổng lý Văn Phòng Bộ Y Tế thời Bác Sĩ Trần Ngọc Ninh làm bộ Trưởng Y Tế. Thầy
là một người rất tài giỏi và rất có tình với anh em ngành dược. Cơ sở thầy lập
ra lúc thời kỳ mở cửa,cho nên mọi sinh hoạt hình như khá thoánh hơn trước. Thầy
góp vốn từ bạn bè và các thân hữu để thành lập Xí Nghiệp Hợp Doanh với tên là Công
Ty Dược Pharimax, nhân viên được thầy thâu dụng hầu hết là những anh em Dược Sĩ,
Dược Tá và các nhân viễn cũ nơi những cơ quan mà thầy làm Giám Đốc trước đây.
Khi vào gặp thầy ở văn phòng Giám Đốc, thầy nhận ra tôi ngay…thầy có một trí nhớ
thật tuyệt vời…Sau khi tôi trình bày hoàn cảnh, thầy ngẫm nghĩ một lúc rồi gật
đầu. Chuyện còn lại là phải thông qua Ban Tổ Chức. Người bạn chotôi biết, khi
Giám Đốc nhận rồi thì bên đó chắc họ sẽ nhận thôi vì đây là cơ sở Hợp Doanh. Chánh
quyền muốn đưa người của họ vô để kiễm soát. Người bạn trước đây xin vào công
ty cũng đi con đường như vậy. Người bạn nói: “Mầy mua một con gà và vài lít rượu trắng, rồi theo tao đến nhà ông ta
là xong”.
Có cơ ngơi cư trú,
có công việc để sinh sống qua ngày, nhất là trước mắt công an khu vực, tôi là một
công nhân viên, cho nên tôi có cảm giác an toàn hơn trong cuộc sống hằng ngày ở
đất Sài Gòn nầy. Các con tôi bắt đầu đi học. Vợ tôi ở nhà lo cơm nước. Tôi đạp
xe mỗi ngày hai bận sang đi, chiều về.Buổi trưa ở lại xí nghiệp ăn uống và nghĩ
ngơi. “Cùng tắc biến, biến tắc thông”, mọi chuyện xảy ra trong lúc nầy là hồn tôi
có phần thanh thảng đôi chút, tuy nhiên cái vướng mắc “Trốn Trại” luôn là một đánh
thức tâm hồn tôi “ Tôi, chưa hẳn là cánh
chim bay trong trời rộng…! Với cái xã hội nầy mọi thứ bất cập đều có thể đổ sập
xuống đầu…sự lo âu cứ lẩn quẩn trong đầu, cả khi trong giấc ngủ…!”
Sau buổi cơm chiều,
tôi thường nằm trên chiếc ghế ngã lưng, hút thuốc và nhìn khu chơ phía dưới lúc
nầy hơi vắng vẻ. Một chiếc xích lô len lỏi qua các xạp bán đồ.Tôi nhình người
ngồi trên xe thấy quen quen…Anh đưa tay lên về phía tôi và cười. Đó lành thứ Năm
của vợ tôi từ Xả Vỉnh Bình lên. T6oi nhận ra anh và đón anh từ cầu thang. Anh vội
chìa cho tôi một mảnh giấy và nói “Giấy gì của Bộ Nội Vụ gởi cho dì Sáu nè...“.Tôi
cầm mảnh giấy và đọc ngay đang khi cùng đi với anh vào nhà. “Bộ Nội Vụ thong báo,
hồ sơ đi Mỹ theo diện con lại củ chị Ch. được chấp thuận, Gia đình chuẩn bị đi
phỏng vấn khi nhận được giấy thông báo sau…”. Tôi gọi réo vợ tôi đang nấu ăn ở
phía sau nhà: “Anh Năm đem tin vui lên…hồ sơ con lai đã có kết quả rồi..” Vợ tôi
từ nhà bếp đi lên chào anh Năm… và xem mảnh giấy. Chúng tôi cả nhà cùng vui mừng
hớn hở. Đêm đó tôi lo lắng, sau thời gian dài lên Sài Gòn, không biết thằng nhỏ
còn ở chung nhà và còn đi theo xe của đứa
em không? Tôi viết thơ và nhờ anh Năm ghé Trà Vinh nói việc nầy cho ba má tôi
biết và thu xếp cho thằng nhỏ lên Sài Gòn ở để chờ ngày đi phỏng vấn.
Tôi đã trãi qua biết bao nhiêu là cam go để
đối phó với thằng bé con lai kể từ khi mang nó lên Sài Gòn để chờ Mỹ phỏng vấn.
Thằng bé mù chữ nhưng dể bị kích động với những xì xầm vô cang về chuyến đi của
gia đình tôi có kèm theo nó. Bây giờ nó biết mình quan trọng nên đâm ra đòi hỏi, quậy phá, tiêu xài phung phí.Vợ tôi bị nó dằn vặt thì thất chí. Ba má tôi cũng khó
chịu và bất bình với những hành động ngang ngược và qua đáng của nó. Nhiều người
trong khu chung cư bất bình khi thấy tôi chịu đựng qua mức với sự ngang ngược của
nó nói với tôi: Anh đi Mỹ để hốt vàng sao
mà anh chịu khổ với thằng lai nầy như vậy.Tôi cười trừ vả lả. Họ đâu có biết
tôi không còn cách chọn lựa nào khác nữa…!
Cuối
cùng, chiếc máy bay D6 cánh quạt chạy ra lằn băng. Chiếc máy bay cất cánh kkỏi
phi trường Tân Sơn Nhất. Tôi nhìn qua cửa sổ máy bay. Tôi nhìn Sài Gòn lần
cuối. Tôi được nhất bổng lên dần. Quê hương chỉ còn lại dưới đám mây mù. Tôi
bắt đầu vượt qua khỏi vòng kèm tỏa của chánh quyền Cộng Sản. Tôi mộtkẻ bị ngả
ngựa, buông gươm giờ đây ngẩng mặt. Tôi sẽ bức rời khỏi người những rối rấm đầy
đau xót, nhưng tôi cũng buồn bã vô cùng khi bức rời khỏi mái ấm gia đình. Hình
ảnh ba má tôi nhạt nhòa với hai dòng nước mắt vừa chảy ra trên má.
Gia
đình tôi cùng các gia đình có con lai khác tạm nghĩ ở trại chuyển tiếpThái Lan
trong một tuần rôi đượ chuyển đến PRPC, trại tập trung các người tị nạn từ khắp
nơi như Mã lai, Indonisia, Hồng Kông, Thái Lan… để học Anh Ngữ trong vòng 6
tháng trước khi được nhập cư đến các nước chấp nhận cho nhập cảnh.
Trong 6 tháng tại đây gia đình tôi và đa số
các gia đình đi Mỹ theo diện con lai phải đối phó với vô vàng sự quậy phá của
đám trẻ nầy. Thằng bé nhà tôi cuối cùng nó đã tách rời gia đình tôi để đi Mỹ
trước một mình. Gia đình tôi phải ở lại thêm một thời gian vì phải chuyển qua
diện khác. Các đứa em tôi ở Úc lo giấy tờ bảo lảnh cho tôi sang Úc. Nếu phải
chờ đi theo diện nầy, tôi phải mất thời gian lâu hơn…không biết là bao lâu?
Cuối cùng phái đoàn Mỹ tái phỏng vấn tôi đi Mỹ theo diện sĩ quan. Nhờ số giấy
tờ và vài hình ảnh cũ còn lại, nhờ sự chứng minh rỏ ràng của tôi qua cuộc phỏng
vấn, có cả nhân viên lưu giử hồ sơ ở Tòa Lảnh Sự Mỹ ở Thái Lan cùng ngồi nghe
tôi trả lời mấy câu phỏng vấn rất gay go. Họ đã nhận thấy hồ sơ của tôi là đúng
sự thật. Gia đình tôi được chuyển qua diện tị nạn chách trị và ở lại thêm 3
tháng nữa để được cấp nhập cảnh vào nước Mỹ.
No comments:
Post a Comment